<May 2024>
SunMonTueWedThuFriSat
2829301234
567891011
12131415161718
19202122232425
2627282930311
2345678
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Về quy mô vĩ đại của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng
Tác giả: Bác sĩ Trần Đại Sỹ

Về quy mô vĩ đại của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng

Bác sĩ Trần Đại Sỹ

          1. Dựa trên khảo cứu các thư tịch cổ, sử gia Lê Văn Hưu, thế kỷ 13 (thời Trần), chép về Hai Bà :

          “Trưng Trắc, Trưng Nhị là phụ nữ, hô một tiếng mà các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại, đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương".

          Điểm qua các địa danh trong đoạn sử trên :

          - Giao Chỉ :  miền Bắc Việt Nam ngày nay,

          - Cửu Chân :  Ninh Bình - Thanh Hóa - Nghệ An ngày nay,

          - Nhật Nam :  sau này là Chăm Pa, toàn bộ miền Trung nước ta ngày nay,

          - Hợp Phố :  tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc - ngày nay.

          - Lĩnh Ngoại : chỉ chung vùng đất bên ngoài dãy núi Ngũ Lĩnh, còn có tên khác là Lĩnh Nam, đây là vùng đất của các dân tộc mà người Hán gọi chung là Bách Việt (hình dưới). Nay là là các tỉnh phía Nam Trung Quốc.

          2. Dấu tích trong huyền sử, thần thoại, tín ngưỡng ở Nam Trung Quốc :

          Cuối thế kỷ 20, một công trình nghiên cứu của Giáo sư - Bác sỹ Việt Kiều Trần Đại Sỹ, công tác ở Bộ Y tế nước Cộng Hòa Pháp, nhân dịp đi công tác tại Trung Quốc cho ta thấy một số di tích của cuộc khởi nghĩa của Hai Bà vẫn còn tồn tại ở vùng Hoa Nam (các tỉnh phia Nam Trung Quốc). Báo cáo của Bác sỹ Trần Đại Sỹ cho biết như sau :

          “Trong những năm 1978-1979, khi dẫn phái đoàn Ủy-ban y học Pháp-Hoa (CMFC) đi trao đổi tại các tỉnh cực Nam Trung Quốc như Quảng đông, Quảng-tây, Vân nam, Quý châu và Tứ xuyên . . . tôi (Trần Đại Sỹ) thấy khắp các tỉnh này, không ít thì nhiều đều có đạo thờ vua Bà. Nhưng tôi không tìm được tiểu sử vua Bà ra sao. Ngay những cán bộ Trung quốc ở địa phương, họ luôn đề cao vua Bà, mà họ cũng chỉ biết lờ mờ vua Bà là người nổi lên chống tham quan. Khắp năm tỉnh, tôi ghi chú được hơn trăm đền, miếu thờ những tướng lĩnh thời vua Bà.

          Bấy giờ tôi lại tìm thấy ở Hồ nam, nhiều di tích về đạo thờ vua Bà hơn. Tại thư viện bảo tồn di tích cổ, tôi tìm thấy một cuốn phổ rất cổ, soạn vào thế kỷ thứ tám chép sự tích Nữ vương Phật Nguyệt như sau :

          “Ngày xưa, Ngọc-hoàng Thượng-đế ngự trên điện Linh-tiêu, có hai công chúa đứng hầụ. Vì sơ ý hai công chúa đánh vỡ chén ngọc. Ngọc-hoàng Thượng-đế nổi giận đầy hai công chúa xuống hạ giớị. Hai công chúa đi đầu thai được mấy ngày thì Tiên-lại giữ sổ tiên-giới tâu rằng có 162 tiên đầu thai xuống theo hai công chúa. Ngọc-hoàng Thượng-đế sợ công chúa làm loạn ở hạ giới, ngài mới truyền Thanh-y đồng tử đầu thai để theo dẹp loạn. Thanh-y đồng tử sợ địch không lại hai công chúa, có ý ngần ngừ không dám đi, Ngọc-hoàng Thượng-đế truyền Nhị thập bát tú đầu thai theo. Thanh-y đồng tử sau là vua Quang Vũ nhà Hán.

          Nhị thập bát tú đầu thai thành hai mươi tám vị văn thần võ tướng đời Ðông-Hán. Còn hai công chúa đầu thai xuống quận Giao-chỉ, vào nhà họ Trưng. Chị là Trắc, em là Nhị. Lúc Trưng Trắc sinh ra có hương thơm đầy nhà, thông minh quán chúng, có sức mạnh bạt sơn cử đỉnh, được gả cho Ðặng Thi-Sách. Thi-Sách làm phản, bị Thái-thú Tô Ðịnh giết chết. Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa, được 162 anh hùng các nơi nổi lên giúp sức, nên chỉ trong một tháng chiếm hết sáu quận của Trung-quốc ở phía Nam sông Trường-giang: Cửu-chân, Nhật-nam, Giao-chỉ, Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hảị Chư tướng tôn Trưng Trắc lên làm vua, thường gọi là vua Bà.

          Quang-Vũ nhà Hán sai Phục-ba tướng quân Tân-tức hầu Mã Viện. Long-nhương tướng quân Thận-hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Ðộng-đình. Mã Viện, Lưu Long bị bạị. Vua Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga-mi, một tay nhổ núi Thái-sơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường-giang, hồ Ðộng-đình, oán khí bốc lên tới trời.

          Ngọc-hoàng Thượng-đế sai thiên-binh, thiên-tướng trợ chiến cũng bị bại. Ngài phải sai thần Du Liệt sang Tây phương cầu cứu Phật Như Lai. Ðức Phật sai mười tám vị Kim-cương, ba ngàn La-hán trợ chiến cũng bị bại. Cuối cùng ngài truyền Quán Thế Âm bồ tát tham chiến. Nữ vương Phật-Nguyệt với Quan-Âm đấu phép ba ngày ba đêm, bất phân thắng bại. Sau Quán Thế Âm thuyết pháp nữ vương Phật Nguyệt giác ngộ, bỏ đi tu”.

          Bỏ ra ngoài những huyền thoại về Nữ-vương Phật-Nguyệt, tài liệu chứng minh: Đạo thờ vua Bà tại năm tỉnh Nam Trung-quốc là di tích của lòng tôn kính thờ anh hùng dân tộc của tộc Việt trên lãnh thổ cũ của người Việt còn sót lại. Vua Bà mà người Trung-hoa thờ như một thứ tôn giáo, chính là vua Trưng.

          Huyền sử (những cuốn phổ) nói rằng :  Khi bà Trưng Nhị cùng các tướng Trần Năng, Phật Nguyệt, Trần Thiếu-Lan, Lại Thế-Cường đánh Trường-sa vào đầu năm Kỷ-Hợi (39 sau Tây-lịch). Trong trận đánh này, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tử trận, được mai táng ở ghềnh sông Thẩm-giang. Thẩm-giang chính là đọan sông ngắn ở Bắc, tiếp nối với hồ Động-đình. Một cuốn phổ khác, chép vào thời Nguyễn nói rằng: Các sứ thần triều Lý, Trần, Lê khi qua đây đều có sắm lễ vật đến cúng miếu thờ bà Trần Thiếu-Lan. Năm 1980 tôi đến đây tìm hiểu. Không khó nhọc tôi tìm ra trong cuốn địa phương chí, do sở du lịch Trường-sa cấp, một đoạn chép :

          “Miếu thờ liệt nữ Trần Thiếu-Lan ở đầu sông Tương. Hồi cách mạng văn hóa bị phá hủy. Tượng đồng bị nấu ra. Vệ binh đỏ phá luôn cả bia đá”.

          Tôi tìm tới nơi, thì miếu chỉ còn lại cái nền bằng đá ong, mộ vẫn còn.

          Vậy, thời Lĩnh-Nam quả có việc Trưng Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Trần Thiếu-Lan, Lại Thế-Cường đánh trận Trường-sa. Trong trận, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tuẫn quốc. Khi có trận đánh này, thì lãnh địa thời Lĩnh-Nam quả gồm có hồ Trường-sa, hồ Động-đình”.

          Trong dịp hè năm 1982, Bác sỹ Trần Đại Sỹ cầm đầu phái đoàn CMFC sang Vân-Nam, Trung-quốc, để nghiên cứu về một giống trà có khả năng trị tuyệt chứng Cholestérol, Triglycéride. Nhân dịp này, ông cất công tìm kiếm các sử liệu về trận Bồ Lăng của quân Hai Bà với quân Hán.

          Phái đoàn gồm :  Trưởng-đoàn :  Bác-sĩ Trần Ðại-Sỹ, Thành viên: Bác-sĩ Pascale Vareilla (Biologie), Claude Tarentino (Anatomie), Antonio Fernandes (Cardiologie). Các dược sĩ: Valérie Cordinante, Jean Marie Limager. Kỹ sư canh nông Antoine Reynault, và một diễn viên điện ảnh Hương-cảng.

          Trong chương trình phái đoàn chỉ công tác tại các vùng thuộc Vân-Nam như :  Chiêu-dương, Đông-xuyên, Khâu-bắc, Nguyên-dương, Bảo-sơn, Điền-Bắc, Côn-minh; rồi dùng phi cơ từ Côn-minh trở về Paris. Nhưng khi tới Đông-xuyên, giáo sư Trần Đại-Sỹ tìm ra dấu vết cuộc chiến giữa quân vua Trưng và quân Hán, mà không rõ ràng cho lắm. Ông dẫn phái đoàn trở lại Côn-minh, sau khi thảo luận với giáo-sư sử học Đoàn Dương của đại học Văn-sử, được giáo sư Đoàn cho biết:

          “Trong truyền thuyết dân gian nói rằng hồi đầu thế kỷ thứ nhất có trận đánh giữa quân vua Bà với quân Hán tại Bồ-lăng. Nay Bồ-lăng nằm trên lãnh thổ Tứ-xuyên, chỗ ngã ba sông Trường-giang và Ô-giang”. Thế là giáo sư Trần Đại-Sỹ đề nghị phái đoàn dùng đường thủy về Hồ-Nam, sau đó đáp phi cơ từ Hồ-Nam ra Hương-cảng, rồi đi Paris.

          “Trên đường từ Độ-khẩu (Vân-Nam) đi Hồ-Nam, sẽ qua . . . Bồ-lăng. Thế là phái đoàn dùng tầu đi từ Độ-khẩu theo Kim-sa-giang (Trường-giang) qua Nam-khê, Giang-tân, Trùng-khánh, tới ngã ba sông Ô-giang, Trường-giang thì gặp bến Bồ-lăng. Tại đây tôi (Trần Đại Sỹ) được sở du-lịch chỉ cho xem miếu thờ ba vị thần, tướng (Chiêu Hiển, Đô Thống,Tam Lang) của vua Bà, tử trận trong trận Bồ Lăng. Nhưng họ không biết tên vua Bà cùng ba vị tướng. Cả vùng này có đạo thờ vua Bà (lên đồng).

          Hồi trước 1949 rất thịnh. Sau cách mạng Văn-hóa (1965-1967) miếu được cấp cho dân chúng ở. Hỏi hướng dẫn viên du lịch về vua Bà, họ chỉ cho biết vua Bà là người nổi lên chống tham quan thời Hán. Tôi đến thăm miếu. Miếu khá lớn, chủ hộ ở trong miếu trước đây là cán bộ Văn-hóa Bồ-lăng. Trước miếu có nhiều câu đối, nay chỉ còn lại có ba. Ông chủ hộ khoe rằng để bảo tồn di tích văn hóa, hằng năm ông phải mua sơn tô chữ cho khỏi mất:

          “Khẳng khái, phù Trưng, thời bất lợi,

          Ðoạn trường, trục Ðịnh, tiết . . . can vân”.

          Nghĩa là :

          Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâu.

          Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay, phải tự tận, khí tiết ngút từng mây.

          Tôi xin vào trong miếu xem, thì bệ thờ nay là nơi vợ chồng ông nằm ngủ. Hai bên bệ cũng có đôi câu đối.

          “Giang-thượng tam anh phù nữ chúa,

          Bồ-lăng bách tộc khốc thần trung”.

          Nghĩa là :

          Trên sông Trường-giang, ba vị anh hùng phò tá nữ chúa.

          Tại bến Bồ-lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.

          Ông chủ hộ thì cho rằng bách tộc là toàn dân Trung-quốc. Tôi giảng cho ông nghe về sự tích trăm con của Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Vì vậy chữ bách tộc đây để chỉ người Việt. Ông thích lắm. Ông chỉ vào khoảng trống của hai cái cột thuật rằng trước kia cũng có đôi câu đối, nhưng bị lạc mất. Ông đề nghị tôi làm một đôi khác thay thế. Tôi nhờ hướng dẫn viên du lịch mua giùm hai hộp sơn. Một hộp sơn đỏ loại láng và một hộp loại thiếp vàng. Ông với tôi sơn cột mầu đỏ. Chiều hôm đó sơn đỏ khô, tôi trở lại viết bằng sơn thiếp vàng đôi câu đối có sẵn tại đền thờ ba ngài ở thôn Ngọc-động, huyện Gia-lâm, Hà-nội:

          “Tái Bắc tức chinh trần, công cao trục Định,

          Bồ-lăng dương nộ lãng, nghĩa trọng phù Trưng”.

          Nghĩa là :

          Ải Bắc yên gió bụi can qua, công cao đuổi Tô Định.

          Bồ-lăng nổi ba đào, nghĩa nặng phù vua Trưng . . .”.

          3. Kết luận :

          Gần 2000 năm đã trôi qua, lịch sử khu vực phía Nam Trung Quốc và Việt Nam (ngày nay) đã trải qua quá nhiều biến động khắc nghiệt khiến các sử liệu, đền miếu, thư tịch bị đốt phá, hủy hoại nghiêm trọng. “Bên thắng cuộc” (là người Hán) thì cũng chỉ chép vài dòng sơ sài, thiên kiến, ác cảm về Hai Bà.

          Do vậy, qua màn sương của chính sử và huyền sử, chỉ có thể tạm kết luận là các trận đánh của quân Hai Bà với quân Hán không phải chỉ diễn ra trong phạm vi quận Giao Chỉ mà trên cả vùng Hoa Nam (nay đã bị người Hán thôn tính) và triều đại Trưng Vương không chỉ đại diện cho tinh thần phản kháng của riêng các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam ngày nay mà đã từng là cuộc đấu tranh chung của rất nhiều dân tộc trước sự xâm lăng của người Hán trên cả một vùng Lĩnh Nam rộng lớn.

          Mong rằng các nhà Sử học Việt Nam, nếu có điều kiện, tiếp tục đi thực địa tại vùng Hoa Nam, Trung Quốc, để có những nghiên cứu tường tận hơn, làm rạng tỏ trang sử oanh liệt của Hai Bà. Đó là nghĩa vụ thiêng liêng của người Việt chúng ta ngày nay, những con cháu còn sót của Hai Bà, suốt 2000 năm qua vẫn kiên gan không để bị người Hán đồng hóa.

 

Những Tin Cùng Chủ Đề Đã Qua:
Loạt ảnh về Trại Lê Văn Duyệt trụ sở Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô .
Tài Liệu Lịch Sử : Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa Năm 1969
Hồ Đắc Huân : Người thu nhặt những mảnh vỡ lịch sử của một Quân Đội bị bức tử
Những sự kiện nghiêm trọng đã từng xảy ra thời chế độ Ngô Đình Diệm :
Cướp Chùa, Chiếm Đất Để Xây Nhà Thờ
Câu Chuyện Lịch Sử . . . .
Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Xuân Thảo
Ba Ngày Cuối Tháng 8 Năm 1963 : Tài Liệu Giải Mật Của Chính Phủ Mỹ
1963 – 2013 - Năm Mươi Năm Nhìn Lại : Jean Baptiste Ngô Đình Diệm - Thời Kỳ Chưa Nắm Quyền, 1897-1954
1963 – 2013 – Năm Mươi Năm Nhìn Lại : Bát Cơm Bảo Hộ Của Ngô Đình Khôi
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HOA KỲ
TỔ ĐÌNH TỪ ĐÀM HẢI NGOẠI
615 N Gilbert Rd Irving TX 75061 - 6240 ĐT:(972)986 - 1019
Bạn là người online số:
3150370
Có -710 Khách Đang Online